Cuộc đời gia đình cô ly tán như biết bao gia đình thời kỳ chống Pháp. Cô kể: Cha cô về Bắc và chết ngoài Bắc năm 1947. Ngoài Bắc khi ấy còn bà nội ở Bắc Ninh. Bà hấp hối, kêu cả nhà về. Lúc đó anh của cô bị bệnh, má cô nói là để về sau, để chồng ra Bắc trước. Ngoài Bắc có chiến sự giữa Việt Minh và Pháp, cha không vào Nam được.. Năm 1954 cha viết thư vào bảo “Mình (má cô) phải về, con thì đứa nào về được thì về”. Lúc đó mình má cô về Phù Lưu (Bắc Ninh). Sau ông cụ mất trước, bà cụ mất sau. Còn cô thì ở lại Sàigòn, cha mẹ mất mà không nhìn thấy mặt.
Về bài thơ, tác giả cho tâm sự: “Cô buồn mà viết bài đó, trước khi sông Gianh chia đôi đất nước. Cô viết khoảng năm 1951-1952.. Đà Giang là mình tưởng tượng thôi, chứ lúc viết thì không ra Bắc được. Hồi đó chính trị khó khăn nên mình không nói rõ hết mọi sự về thân phận của cô là người gốc Bắc”.
“Có người nghe bài hát của Phạm Duy phổ nhạc, hỏi rằng “cố lý” có phải một địa danh ở Bắc không, xin thưa, cố lý chỉ có nghĩa là quê xa thôi. Phù Lưu, Bắc Ninh mới là quê của tôi. Lúc nhỏ vì bố làm nghề hỏa xa nên năm nào cũng được ra Bắc nghỉ hè, về quê. Trong bài hát có hình ảnh mái đầu bạc là mô tả mẹ của cô”.
“Sáu mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết mẹ già mong con”.
(Thuyền viễn xứ)
Cô Huyền Chi trầm ngâm: “Sau khi nhận thư của bố tôi bảo má tôi phải ra Bắc, bà đã bỏ sạp vải trong chợ Bến Thành ra với chồng, kể từ đó, tôi một thân một mình ở Sàigòn, thương cha, nhớ mẹ, một mình lủi thủi nơi đất khách quê người. Tôi lập gia đình và bỏ luôn nghiệp làm thơ vì phải bận rộn cùng chồng nuôi 7 đứa con dại”.
Một đời ẩn dật
Năm 1954 thi sĩ lập gia đình khi mới đôi mươi. Chồng nhà giáo, đông con, phải giúp chồng làm kinh tế. Cô mở hiệu sách bán và dạy Anh văn.