1. Đọc sách nhiều khi thường đẩy tôi vào một sự chất vấn, một nỗ lực thành thực với chính mình: Tại sao anh đọc nó? Vì một thôi thúc nội tâm? Vì một ngẫu nhiên đưa đẩy? Vì một nỗi sợ bỏ lỡ một điều gì quý giá trong đời đọc sách của mình?
Mà thật ra anh biết đọc không? Cay đắng hơn, anh có đọc không? Bởi đọc đâu phải chỉ là để những dòng chữ trôi lướt trong tâm trí. Phải có một cái gì đó đọng lại, một cái gì đó còn neo bám sau một chuỗi thời gian anh dành đời mình cho trang sách.
2. Tôi không nghĩ mình đã đọc Vũ điệu quỷ Satan (theo cái nghĩa nghiêm khắc nhất của từ “đọc”, mà tôi yêu cầu bản thân mình) ở lần đầu tiên cầm nó lên, dành đến cả tuần lễ, chiến đấu với cơn buồn ngủ khi mắt phải theo dõi những câu văn dài miên man của một cuốn tiểu thuyết thật ra chỉ xoay quanh hai trạng thái: chờ đợi (phần 1) và ra đi (phần 2). Tôi chỉ đọng lại trong đầu ấn tượng về một bối cảnh mang tính chất gothic - một nông trang (thay vì một lâu đài) ở trong tình trạng hoang phế, một bầu không khí dường như lúc nào cũng âm u, ảm đạm, chìm trong một màn mưa vô tận, sặc mùi ẩm mốc, hôi hám, nhão nhoét. Chẳng nhẽ mình đọc một cuốn sách của một tác gia nổi tiếng chỉ để lấy về ngần ấy ấn tượng mông lung.
3. Lần thứ hai này, tôi đọc vì phải hướng dẫn sinh viên làm đề tài nghiên cứu về không khí tự sự. Tôi buộc phải dùng đến dụng cụ giúp tôi có thể tập trung nhiều hơn vào dòng chảy ngôn từ của tiểu thuyết này: cây bút chì. Cuốn sách, vì thế, trở thành nhật ký của sự đọc theo đúng nghĩa.
Vũ điệu quỷ Satan của Laszlo Krasznahorkai như là sự cộng hưởng của cái thế giới phi lý Kafkaesque, thế giới hài hước đen của Samuel Beckett, sự nhại giễu các văn bản quyền uy từ Kinh Thánh đến các diễn ngôn tuyên truyền của thời kỳ chủ nghĩa xã hội. Nó, trước hết, có thể được đọc như một dụ ngôn chính trị mà đặt vào bối cảnh ra đời (năm 1985), sự cay đắng, chua chát của nó quả thật là một thái độ dũng cảm. Dẫu Krasznahorkai không gặp bất cứ sự phê phán nào của giới phê bình chính thống Hungary cho cuốn tiểu thuyết đầu tay này, nhưng chắc chắn không dễ dàng để nói về sự lụi tàn của một thời đại bằng một thứ ngôn ngữ nghệ thuật vừa trần trụi, vừa giàu tính biểu trưng như thế.
Những câu văn dài với lối mô tả chậm rãi, chi tiết của Krasznahorkai là thứ thường làm nản lòng công chúng ngay từ đầu. Nhiều khi, một chương sách của ông chỉ có độ 10-15 câu văn không ngắt đoạn và cũng chỉ tập trung cận cảnh vài hành động, vài sự kiện. Nó đòi hỏi sự nhẫn nại cao độ của người đọc. Ở thời điểm này, lạc thú đọc sách có lẽ chỉ đến với những ai không sốt ruột khi phải chăm chăm theo dõi một chuỗi lời từ tốn, nhẩn nha.
Balzac ở thế kỷ XIX biến tiểu thuyết trở thành một biên bản tỉ mỉ về đời sống xã hội với những câu văn miêu tả chi tiết mà giờ đây có thể khiến công chúng thấy nhức mắt khi đọc. Alain Robbe-Grillet thì không theo đuổi những câu văn dài nhưng ông chủ trương một thứ mô tả thuần bề mặt để ám thị trạng thái rỗng bên trong của xã hội công nghiệp, kỹ trị. Krasznahorkai không khai triển các câu văn dài như một thi pháp nắm bắt ký ức kiểu Proust, ông gần với Beckett hơn khi bằng lối mô tả rậm rạp, ông phóng đại sự vô hồn, vô nghĩa của con người. Sự lụi tàn của một thời đại, một chế độ được trực quan rõ nhất chính là ở thế giới của những nhân vật bị rệu rã về tâm lý, nhân cách, đạo đức. Ngay cả ông bác sĩ hay ông đốc học, những nhân vật trí thức trong thế giới của Vũ điệu quỷ Satan này, cũng không kháng cự nổi được tình trạng ấy. Họ mỏi mệt, họ rũ rượi.
Thế giới ấy làm rỗng luôn cả ý nghĩa của sự chờ đợi, hy vọng. Nếu như trong kịch Beckett, Vladimir và Estragon còn chờ đợi Godot, dù đó là ai - họ không rõ thì trong Vũ điệu quỷ Satan, những người còn sót lại ở nông trang đặt cược vào Irimias - một hình tượng bợm nghịch. Thật sự là chỉ khi đọc cuốn tiểu thuyết này, tôi mới vỡ lẽ một điều: tại sao ở Việt Nam, cũng vào thời điểm chiến tranh lạnh tan ra, Liên Xô Đông Âu sụp đổ, người ta đổ xô đi đánh đề, đánh lô tô. Trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, nhịp điệu hỗn mang của Hà Nội buổi quá độ xoay vần theo tin tức số đề. Các nhân vật trong tiểu thuyết của Krasznahorkai không đánh xổ số nhưng việc họ ký thác tương lai của mình vào một hình tượng nhà tiên tri giả như Irimias cũng phát lộ tính chất hài hước đen: một chế độ hứa hẹn với con người về một cõi không tưởng kỳ vĩ nhưng cuối cùng bỏ mặc con người ở một trạm quá cảnh hoang phế, nơi con người mất hoàn toàn khả năng phản tư hay còn đủ nội lực mà kháng cự, thay vào đó, chỉ biết chờ đợi một ai đó dẫn dắt mình, thúc bách mình. Một sự tê liệt hiện sinh bao trùm lên thế giới Vũ điệu quỷ Satan.
4. Nhưng Vũ điệu quỷ Satan không phải chỉ là một tự sự buộc người ta phải nhớ về một giai đoạn lịch sử đã qua, chỉ ra bản chất phi lý của những ảo tưởng chính trị và hậu quả mà chúng đã tạo ra: chúng bào mòn con người thành những tồn tại mệt mỏi, không còn lương năng. Nhà văn lớn nào cũng có thể nhìn xa hơn những vấn đề nhức nhối của thời đại mình.
Thế giới chúng ta đang sống những ngày này cũng đầy những nhà tiên tri giả. Một thế giới, bất chấp những hào nhoáng và tốc độ bề mặt, vẫn đẫy rẫy những con người bị bỏ rơi trong trạm quá cảnh lên “thiên đường.” Viết đến đây, tôi lại nhớ đến những phim tài liệu của Bing Wang về những vùng nông thôn Trung Hoa bị bỏ mặc, những cảnh đời công nhân mà tuổi trẻ bị vắt kiệt trong cỗ máy sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Thế giới chúng ta đang sống, trớ trêu thay, bất chấp những tiến bộ của khoa học kỹ nghệ, chưa bao giờ lại dồi dào những sự mê tín và cuồng tín đến vậy. Nhan đề cuốn tiểu thuyết của Krasznahorkai tự nó đã gợi ra liên tưởng về một thứ âm nhạc vừa mê hoặc vừa nguy hiểm. Thứ âm nhạc ấy, quả thực, như tiếng chuông mở đầu tác phẩm này, có lẽ vẫn đang vang vọng trong đời sống chính trị toàn cầu bây giờ.